Ngộ độc thuốc tê, kinh nghiệm từ lý thuyết tới thực hành lâm sàng

Tải xuống

Dữ liệu tải xuống chưa có sẵn.
PDF     3    3

Tóm tắt

Ngộ độc thuốc tê là một tai biến mặc dù ít gặp trên lâm sàng nhưng có thể dẫn đến các biến chứng nặng do độc tính thuốc tê gây ra. Tuy nhiên, việc nhận biết các triệu chứng của ngộ độc thuốc tê trên lâm sàng thường chưa được nhân viên y tế quan tâm và đánh giá đúng mức, đặc biệt là các trường hợp xuất hiện rối loạn nhịp. Do đó, chúng tôi xin chia sẻ một trường hợp bệnh nhân nữ 52 tuổi có chỉ định phẫu thuật tiếp khẩu túi lệ xuất hiện các rối loạn nhịp nguy hiểm trong quá trình gây tê và đã được phát hiện và xử trí kịp thờ

https://doi.org/10.38103/jcmhch.87.14

Tài liệu tham khảo

Dagenais S, Scranton R, Joyce AR, Vick CC. A comparison of approaches to identify possible cases of local anesthetic systemic toxicity in the FDA Adverse Event Reporting System (FAERS) database. Expert Opinion on Drug Safety. 2018;17(6):545-552.

Gitman M, Barrington MJ. Local anesthetic systemic toxicity: a review of recent case reports and registries. Regional anesthesia & pain medicine. 2018;43(2):124-130.

Wolfe RC, Spillars A. Local anesthetic systemic toxicity: Reviewing updates from the American Society of Regional Anesthesia and Pain Medicine Practice advisory. Journal of PeriAnesthesia Nursing. 2018;33(6):1000-1005.

Bộ Y Tế, Hướng dẫn phòng, chẩn đoán và xử trí phản vệ. Thông tư 51/2017/TT-BYT 2017

Đã xuất bản 29-12-2024
Toàn văn
PDF     3    3
Ngôn ngữ
Số tạp chí Số 87 (2023)
Phân mục Báo cáo trường hợp
DOI 10.38103/jcmhch.87.14
Từ khóa Ngộ độc thuốc tê, rối loạn nhịp, phẫu thuật tiếp khẩu túi lệ Local anesthetic systemic toxicity, dacrycystorhinostomy

Creative Commons License

công trình này được cấp phép theo Creative Commons Attribution-phi thương mại-NoDerivatives 4.0 License International .

Bản quyền (c) 2023 Tạp chí Y học lâm sàng Bệnh viện Trung Ương Huế

Trần, N. T. N., & Ngô, D. (2024). Ngộ độc thuốc tê, kinh nghiệm từ lý thuyết tới thực hành lâm sàng. Tạp Chí Y học lâm sàng Bệnh viện Trung Ương Huế, (87), 5–10. https://doi.org/10.38103/jcmhch.87.14