Mối liên quan giữa nồng độ Cystatin C huyết thanh với mức độ tổn thương thận ở bệnh nhân đái tháo đường týp 2

Tải xuống

Dữ liệu tải xuống chưa có sẵn.
pdf     17    9

Tóm tắt

Mục tiêu: Khảo sát nồng độ cystatin C huyết thanh và mức lọc cầu thận ước lượng dựa vào cystatin C (MLCTcys) ở bệnh nhân đái tháo đường týp 2 có tổn thương thận. Phân tích mối liên quan giữa cystatin C huyết thanh, MLCTcys với mức độ tổn thương thận ở bệnh nhân đái tháo đường týp 2. Đối tượng và phương pháp: 81 bệnh nhân đái tháo đường týp 2 có tổn thương thận điều trị tại Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên được khám lâm sàng, xét nghiệm một số chỉ số sinh hóa: creatinin, cystatin C huyết tương, protein niệu/24 giờ, microalbumin niệu (MAU). Ước lượng mức lọc cầu thận dựa vào nồng độ creatinin, cystatin C. Kết quả: Nồng độ cystatin C huyết thanh ở bệnh nhân suy thận mạn (2,35 ± 1,12mg/l) cao hơn so với nhóm tổn thương thận có MLCTcre ≥60 (1,45 ± 0,56 và 1,09 ± 0,59m/L) với p<0,05. Có mối tương quan mức độ chặt giữa nồng độ cystatin C, MLCTcys với creatinin và MLCTcre ở bệnh nhân đái tháo đường có suy thận mạn; Ở nhóm bệnh nhân đái tháo đường có MLCTcre ≥ 60, MAU (+), không thấy sự tương quan có ý nghĩa giữa nồng độ cystatin C, MLCTcys với creatinin và MLCTcre (p>0,05). Tỷ lệ bệnh nhân suy thận được đánh giá theo MLCTcys cao hơn tỷ lệ bệnh nhân suy thận đánh giá theo MLCTcre. Kết luận: Cystatin C có thể thay thế để đánh giá chức năng thận, ước lượng mức lọc cầu thận dựa vào cystatin C có thể phát hiện những bệnh nhân suy thận mà chưa phát hiện được dựa vào creatinin.

https://doi.org/10.38103/jcmhch.2021.68.14

Tài liệu tham khảo

Đặng Anh Đào (2019). Nghiên cứu mức lọc cầu thận bằng cystatin C huyết thanh ở bệnh nhân tiền đái tháo đường và đái tháo đường týp 2. Luận án Tiến sĩ.

Phạm Quốc Toản, Hoàng Trung Vinh, Nguyễn Văn Tiến (2015). Khảo sát mối liên quan giữa nồng độ cystatin C với huyết thanh và mức lọc cầu thận ở bệnh nhân đái tháo đường týp 2 có tổn thương thận. Y Dược học Quân sự, số 1, 56-62.

Byung-Wan Lee, Sung-Hee Ihm (2007). The comparison of as an accurate serum marker in the prediction of type 2 diabetic nephropathy. Diabetes Research and Clinical Practice, 78, 428-434.

Grubb A. (2011). Cystatin C as a biomarker in kidney disease. Biomarker in Kidney Disease, First Edition, 291-306.

KDIGO (2012). KDIGO 2012 clinical practice guideline for the evaluation and management of chronic kidney disease. Kidney International Supplements, 3(1), 19-62.

Leskey A. Inker, Christopher H. Schmid, Hocine Tighouart (2012). Estimating Glomerular Filtration Rate from serum Creatinine and Cystatin C. New England Journal of Medicine, 367(1), 20-29.

Mussap M., Dalla Vestra, Paola Fioretto et al. (2002). Cystatin C is a more sensitive marker than creatinine for the estimation of GFR in type 2 diabetic patients. Kidney International, 61(4), 1453-1461.

Nabil A. El-Kafrawy, Ahmed A. Shohaib, Samar M. Kamal El-Deen, et al. (2014). Evaluation of serum cystatin C as an indicator of early renal function decline in type 2 diabetes. Menoufia Medical Journal, 27(1), 60-65.

Jeon Y.L., Kim M.H., Lee W.I., Kang S.Y. (2013). Cystatin C as an early marker of diabetic nephropathy in patients with type 2 diabetes. Clinical Laboratory, 59(11-12), 1221-1229.

Stevens G. (2002). Serum cystatin C is superior to serum creatinine as a marker of kidney function: a meta-analysis. American Journal of Kidney Diseases, 40(2), 221-226.

Đã xuất bản 27-04-2021
Toàn văn
pdf     17    9
Ngôn ngữ
Số tạp chí Số 68 (2021)
Phân mục Nghiên cứu
DOI 10.38103/jcmhch.2021.68.14
Từ khóa Bệnh thận do đái tháo đường, Cystatin C, Mức lọc cầu thận Diabetic nephropathy, Cystatin C, GFR

Creative Commons License

công trình này được cấp phép theo Creative Commons Attribution-phi thương mại-NoDerivatives 4.0 License International .

Bản quyền (c) 2025 Tạp chí Y học lâm sàng Bệnh viện Trung Ương Huế

Nguyễn, T. N. H., Nguyễn, T. T. H., Nguyễn, T. G., Cao, X. C., & Tôn, T. N. (2021). Mối liên quan giữa nồng độ Cystatin C huyết thanh với mức độ tổn thương thận ở bệnh nhân đái tháo đường týp 2. Tạp Chí Y học lâm sàng Bệnh viện Trung Ương Huế, (68), 97–103. https://doi.org/10.38103/jcmhch.2021.68.14