Abstract
Bối cảnh: Ung thư dạ dày là bệnh ác tính thường gặp nhất ở đường tiêu hóa và là loại ung thư phổ biến thứ tư trên toàn thế giới. Tỷ lệ mắc bệnh có sự thay đổi lớn về mặt địa lý và Việt Nam được coi là quần thể có tỷ lệ mắc bệnh tương đối cao [3]. Phẫu thuật cắt bỏ bao gồm cắt toàn bộ dạ dày và nạo hạch là liệu pháp chính cho ung thư dạ dày [4],[6]. Tuy nhiên, chỉ một số ít bệnh nhân ở giai đoạn sớm và bệnh tại chỗ đủ điều kiện để cắt bỏ để chữa khỏi bệnh, chiếm 70% - 80%. Hầu hết bệnh nhân được chẩn đoán ở giai đoạn muộn và do đó có nguy cơ tái phát và di căn cao hơn sau khi cắt bỏ [9],[11].
Mục tiêu: Mô tả các đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của bệnh nhân ung thư biểu mô tuyến dạ dày xa tiến triển tại chỗ đã được điều trị hóa xạ trị bổ trợ sau phẫu thuật tại bệnh viện trung ương Huế.
Phương pháp: Năm mươi bốn bệnh nhân ung thư biểu mô tuyến dạ dày xa tiến triển tại chỗ đã được đưa vào phân tích. Tất cả bệnh nhân đều được cắt dạ dày xa và xạ trị hóa chất bổ trợ sau phẫu thuật tại Bệnh viện Trung ương Huế từ tháng 1 năm 2013 đến tháng 12 năm 2015. Bệnh nhân được theo dõi đến tháng 8 năm 2018.
Kết quả: Đau thượng vị là than phiền chính phổ biến nhất (81,4%). Thời gian trung bình từ khi khởi phát triệu chứng đến khi nhập viện là 8,9 ± 10,3 tháng (dao động từ 1 - 36 tháng). Thiếu máu (được định nghĩa là hemoglobin < 10g/dL) 18,5%, giảm protein máu (3,7%) và giảm albumin máu (37,5%). Nhóm máu: nhóm máu O phổ biến nhất (42,5%), tiếp theo là nhóm máu A (31,5%), nhóm máu B (20,4%) và nhóm máu AB (5,6%). Tổn thương dạ dày và/hoặc hạch bạch huyết khu vực được phát hiện trên siêu âm ở 51,2% trường hợp. Tất cả các cá nhân (n = 54) đều được sinh thiết dạ dày trước khi phẫu thuật. Vị trí phổ biến nhất của khối u là hang vị (57,3%). Kết quả mô bệnh học sau phẫu thuật xác nhận ung thư biểu mô tuyến. Trên hình ảnh nội soi đại thể, loại loét là phổ biến nhất (48,2%), tiếp theo là loại thâm nhiễm. Trên CT: 74% khối u được thấy ở hang môn vị. Độ nhạy của CT là 49/54 (90,7%). Dày thành và thâm nhiễm thành khu trú là những phát hiện phổ biến nhất (lần lượt là 100% và 91,8%). Kết quả mô bệnh học sau phẫu thuật: 83,3% khối u được phân loại là T3, 92,6% là ung thư biểu mô tuyến ống, trong đó 75,9% là biệt hóa trung gian đến kém. Tất cả bệnh nhân đều có ≥ 15 hạch bạch huyết đã cắt bỏ, trung bình 17,02 ± 1,64 (dao động, 15 - 21 hạch), số hạch dương tính cao nhất là 7. Phân loại giai đoạn: 87,0% giai đoạn II, 13,0% giai đoạn III.
Kết luận:Độ tuổi trung bình là 58,56 ± 10,28 tuổi; nhóm tuổi 51 -70 tuổi là phổ biến nhất (7,0%), tỷ lệ nam/nữ là 2,6/1. Đau thượng vị là biểu hiện lâm sàng thường gặp nhất (94,4%). Độ chính xác chẩn đoán của sinh thiết nội soi dạ dày là 69,2%. Độ nhạy của chụp CT trong phát hiện khối u dạ dày là 90,7%; trong đó thấy dày thành dạ dày ở tất cả các trường hợp (100%) và thâm nhiễm thành dạ dày ở phần lớn các trường hợp (91,8%). Ung thư biểu mô ống là loại mô học phổ biến nhất (92,6%). Phần lớn khối u xâm lấn vào thanh mạc (83,3%). Số hạch bạch huyết trung bình bị cắt bỏ là 17,03 ± 1,61 hạch. Phần lớn khối u ở giai đoạn II (87,0%), giai đoạn III (13,0%).
References
Phạm Minh Anh, Trần Hữu Thọ (2013),”Nghiên cứu đặc điểm giải phẫu bệnh ung thư dạ dày điều trị tại bệnh viện Ung Bướu Hà nội 2010 - 1012”, Tạp chí Y học thực hành, 876(7), tr: 112 - 115
Nguyễn Văn Bằng (2006), ”Nghiên cứu mô bệnh học ung thư dạ dày sau phẫu thuật cắt dạ dày tại Bệnh viện T,W Huế (2002 - 2005)”, Tạp
chí Y học thực hành, 541, tr: 486 - 490
Nguyễn Bá Đức và cộng sự (2010), ”Tình hình mắc ung thư tại Việt Nam năm 2010 qua số liệu của 6 vùng ghi nhận giai đoạn 2004- 2008”, Tạp chí Ung thư học Việt Nam, 1, tr: 73 - 80
Hoàng Việt Dũng, Trịnh Hồng Sơn (2010), ”Chẩn đoán và phẫu thuật ung thư dạ dày tại bệnh viện Hữu nghị (Giai đoạn 2008 - 2009)”,
Tạp chí Y học thực hành (714), Số 4, tr: 39 – 44.
Nguyễn Ngọc Hùng, Nguyễn văn Tuyên, Nguyễn Văn Binh(2007), “Phân loại mô bệnh học ung thư dạ dày”, Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí
Minh, 11(3), tr. 57-60.
Phạm Duy Hiển và cộng sự (2010), “Đánh giá kết quả bước đầu hóa - xạ trị đồng thời sau phẫu thuật ung thư dạ dày giai đoạn tiến triển”, Tạp chí Ung thư học Việt Nam, 1, tr: 301 - 308
Lê Văn Quảng (2011), “Nhận xét đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và các phương pháp điều trị ung thư dạ dày giai đoạn III, IV tại bệnh viện K”, Tạp chí Y học thực hành 783(9), tr: 40 – 42.
Đỗ Trọng Quyết, Đỗ Đức Vân,Trịnh Hồng Sơn (2009), “Kết quả điều trị phẫu thuật ung thư dạ dày tại bệnh viện Đa khoa tỉnh Thái bình từ
tháng 1/2006 đến 7/2008”, Tạp chí Y học thực hành, 669(8), tr: 32 - 37
Abigail S, Caudle, Hong Jin Kim, and Joel E, Tepper (2007), “Evidence-Based Practice: The Role of Adjuvant Radiotherapy in the Treatment
of Gastric Adenocarcinoma”, Gastrointestinal Oncology Evidence and Analysis, Chapter 8, pp: 85 - 96
Christopher G, Willett, Leonard L, Gunderson (2008), “Stomach”, Principles and Practice of Radiation Oncology, 5th Edition, Section III,
Part G, Chapter 55, pp: 1318 - 1336
Giorgio Arcangeli (2002), “Postoperative adjuvant chemoradiation in completely resected locally advanced gastric cancer”, J, Radiation
Oncology Biol, Phys, 54(4), pp: 1069 - 1075
Sasako M. (2008), “Surgery and adjuvant chemotherapy”, Int J Clin Oncol, 13, pp.193-195.
Published | 24-01-2025 | |
Fulltext |
|
|
Language |
|
|
Issue | No. 54 (2019) | |
Section | Original article | |
DOI | ||
Keywords | locally advanced distal gastric adenocarcinoma |

This work is licensed under a Creative Commons Attribution-NonCommercial-NoDerivatives 4.0 International License.
Copyright (c) 2019 Journal of Clinical Medicine Hue Central Hospital