Tóm tắt
Đặt vấn đề: Sự tiến bộ của y học, đặc biệt trong các lĩnh vực ngoại khoa và gây mê hồi sức đã tạo nên những đột phá đáng kể trong điều trị bệnh. Nhiều kỹ thuật y học được áp dụng đã cứu sống những bệnh nhân nguy kịch, làm giảm nhẹ gánh nặng phẫu thuật cho người bệnh. Tuy nhiên, nguy cơ nhiễm khuẩn vết mổ vẫn là thách thức cho cả người bệnh và thầy thuốc. Nhiễm khuẩn vết mổ là một sự cố y khoa không mong muốn, làm nặng thêm tình trạng bệnh, kéo dài thời gian nằm viện và tăng tỷ lệ tử vong ở bệnh nhân phẫu thuật.
Mục tiêu: 1. Xác định tỷ lệ nhiễm khuẩn vết mổ và tìm hiểu một số đặc điểm nhiễm khuẩn vết mổ; 2. Tìm hiểu một số yếu tố liên quan nhiễm khuẩn vết mổ và các vi khuẩn gây bệnh. Đối tượng và phương pháp: Bệnh nhân đã phẫu thuật sau 48 giờ trở lên tại Trung tâm Chấn thương Chỉnh hình. Xác định ca nhiễm khuẩn vết mổ theo Hướng dẫn của Bộ Y tế, kết quả nuôi cấy vi khuẩn từ khoa Vi sinh, Bệnh viện Trung ương Huế. Nghiên cứu cắt ngang, tiến cứu. Từ tháng 3- 7/2019. Kết quả: Tỷ lệ nhiễm khuẩn vết mổ là 5,4%. Các phẫu thuật nhiễm có tỷ lệ NKVM cao nhất (22,0%) so với các loại khác. Các yếu tố mổ mở hay nội soi, có dẫn lưu, mổ cấp cứu hay mổ phiên, gây mê hay gây tê và tỷ lệ NKVM không có sự khác biệt. Đặc điểm các vết mổ nhiễm khuẩn thường là tụ dịch 47,0%, tụ mủ 31,4%. Cách xử trí là thay băng hằng ngày (52,9 và 84,0%), tháo dịch mủ 19,6%. Các dung dịch sử dụng rửa vết mổ là NaCl 0,9% và cồn Iode/Betadine. Trong 51 ca NKVM, có 31 ca cấy vi khuẩn dương tính, tỷ lệ 60,8%. Vi khuẩn đứng đầu là S.aureus, chiếm 32,3%.
Kết luận: Nhiễm khuẩn vết mổ trong phẫu thuật chấn thương chỉnh hình trong nghiên cứu này là thấp, vi khuẩn gây bệnh đứng đầu là S.aureus.
Tài liệu tham khảo
Bộ Y tế (2012), “Hướng dẫn phòng ngừa nhiễm khuẩn vết mổ” theo QĐ 3671 QĐ- BYT.
Nguyễn Quốc Anh, Nguyễn Việt Hùng, Phạm Ngọc Trường (2012), “Tỷ lệ mới mắc và yếu tố
nguy cơ nhiễm khuẩn vết mổ tại một số bệnh viện của Việt Nam, 2009- 2010”, Y học Thực
hành (830) - số 7/2012.
Trần Đỗ Hùng, Dương Văn Hoanh (2013), “Nghiên cứu tình hình nhiễm khuẩn vết mổ và
các yếu tố liên quan ở bệnh nhân phẫu thuật tại khoa Ngoại, bệnh viện Đa khoa Trung ương Cần Thơ”, Y học Thực hành (869) - số 5/2013.
Nguyễn Việt Hùng, Kiều Chí Thành (2011), “Nghiên cứu nhiễm khuẩn vết mổ tại các khoa
ngoại, bệnh viện tỉnh Ninh Bình”, Y học Thực hành (759)-số 4/2011.
Nguyễn Việt Hùng, Trương Anh Thư, Nguyễn Quốc Anh (2002), “Hậu quả nhiễm khuẩn vết
mổ ở bệnh nhân phẫu thuật tại Bệnh viện Bạch Mai”, Y học Lâm sàng, số chuyên đề, tr 79-82.
Nguyễn Minh Ky, Nguyễn Đức Chính và cs (2017), “Đánh giá chăm sóc vết thương chấn thương phức tạp tại khoa phẫu thuật nhiễm khuẩn Bệnh viện Việt Đức”, Tạp chí Y học thảm họa và Bỏng- số 2/2017.
Lê Thị Anh Thư (2011), “Tình hình nhiễm khuẩn bệnh viện trên bệnh nhân phẫu thuật Ngoại Thần kinh”, Y học Thực hành (764) - số 5/2011.
Hội Kiểm soát Nhiễm khuẩn châu Á Thái Bình Dương (APSIC) 2018, “ Hướng dẫn của Apsic
về phòng ngừa nhiễm khuẩn vết mổ”, Tài liệu hướng dẫn, tr 20-21.
World Health Organization (2011), Report on the Burden of Endemic Health Care-Associated Infection Worldwide.
Đã xuất bản | 08-01-2025 | |
Toàn văn |
|
|
Ngôn ngữ |
|
|
Số tạp chí | Số 60 (2020) | |
Phân mục | Nghiên cứu | |
DOI | 10.38103/jcmhch.2020.60.9 | |
Từ khóa | Nhiễm khuẩn vết mổ (NKVM), vi khuẩn, phẫu thuật surgical site infections (SSIs), bacteria, surgery |

công trình này được cấp phép theo Creative Commons Attribution-phi thương mại-NoDerivatives 4.0 License International . p>
Bản quyền (c) 2020 Tạp chí Y học lâm sàng Bệnh viện Trung Ương Huế