Tóm tắt
Đặt vấn đề: Thời kỳ mang thai, người phụ nữ phải đối mặt với nhiều nguy cơ ảnh hưởng đến sức khỏe thể chất và tinh thần, từ đó có thể làm giảm chất lượng cuộc sống và gián tiếp ảnh hưởng đến sức khỏe của thai nhi. Tìm hiểu về chất lượng cuộc sống của phụ nữ mang thai và các yếu tố liên quan sẽ góp phần cung cấp các thông tin hữu ích, giúp định hướng cho các can thiệp điều dưỡng thích hợp nhằm góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của người phụ nữ, tăng cường sức khỏe cho bà mẹ và thai nhi.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 104 thai phụ đến khám tại Khoa Sản, Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế từ tháng 6/2018 đến tháng 2/2019. Bộ câu hỏi Chất lượng cuộc sống WHOQOL-BREF của Tổ chức Y tế thế giới WHO được sử dụng để thu thập số liệu sau khi đã hiệu chỉnh để phù hợp với người Việt Nam. Bộ công cụ gồm 26 câu hỏi được chia thành 4 lĩnh vực: sức khỏe thể chất, sức khỏe tâm thần, mối quan hệ xã hội và môi trường sống. Số liệu được xử lý và phân tích bằng Phần mềm SPSS 20.0.
Kết quả: Điểm trung bình chất lượng cuộc sống của thai phụ là 58,63 ± 10,02; trong đó lĩnh vực sức khỏe thể chất có điểm chất lượng cuộc sống cao nhất 60,69 ± 14,66 và lĩnh vực sức khỏe tâm thần có điểm chất lượng cuộc sống được đánh giá thấp nhất (56,76 ± 12,50). Nghiên cứu tìm thấy mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa chất lượng cuộc sống của phụ nữ mang thai với các yếu tố: trình độ học vấn của thai phụ (p < 0,001); nghề nghiệp của thai phụ (p = 0,002); điều kiện kinh tế gia đình (p < 0,001); khu vực sinh sống (p = 0,03); trình độ học vấn của chồng (p = 0,001); nghề nghiệp của chồng (p < 0,001); số lần sinh con (p < 0,001); hài lòng về giới tính thai nhi (p = 0,046); mức độ stress của thai phụ (p = 0,004).
Kết luận: CLCS của phụ nữ mang thai đến khám tại Khoa Sản, Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế được đánh giá ở mức trung bình. Xác định các yếu tố ảnh hưởng đến CLCS và cải thiện nó sẽ góp phần nâng cao CLCS cho phụ nữ mang thai
Tài liệu tham khảo
Abbaszadeh F, Baghery A, Mehran N (2009),
“Quality of Life among Pregnant Women”,
Journal of Faculty of Nursing and Midwifery,
(1), p. 41 - 48.
Hama K, Takamura N, Honda S, Abe Y, Yagura C,
Miyamura T, et al (2008), “Evaluation of quality
of life in Japanese Normal pregnant women”,
Acta Med Nagasakiensa, 52(4), p. 95 - 99.
Li J., Mao J., Du Y., et al (2012), “Health-related
quality of life among pregnant women with and
without depression in Hubei, China”, Matern
Child Health J, 16(7), p. 1355 - 1363.
Mortazavi F et al (2014), “Maternal Quality of
Life During the Transition to Motherhood”, Iran
Red Crescent Med J., 16(5), p. 8443. 2 lần
Nolwenn Lagadec, et al (2018), “Factors
influencing the quality of life of pregnant
women: a systematic review”, BMC Pregnancy
and Childbirth, 18, p. 455.
Wadhwa PD, et al (2011), “The contribution
of maternal stress to preterm birth: issues
and considerations”, Clin Perinatol, 38(3), p.
-384.
World Health Organization (2018), “World
health statistics 2018: monitoring health for the
SDGs, sustainable development goals”.
Đã xuất bản | 08-01-2025 | |
Toàn văn |
|
|
Ngôn ngữ |
|
|
Số tạp chí | Số 63 (2020) | |
Phân mục | Nghiên cứu | |
DOI | 10.38103/jcmhch.2020.63.7 | |
Từ khóa |

công trình này được cấp phép theo Creative Commons Attribution-phi thương mại-NoDerivatives 4.0 License International . p>
Bản quyền (c) 2020 Tạp chí Y học lâm sàng Bệnh viện Trung Ương Huế