Đánh giá một số yếu tố tương quan ảnh hưởng đến gây tê đám rối thần kinh cánh tay trong phẫu thuật chi trên

Tải xuống

Dữ liệu tải xuống chưa có sẵn.
PDF     29    6

Tóm tắt

Mục tiêu: Đánh giá mối tương quan giữa tuổi và thời gian khởi phát ức chế cảm giác, tuổi và thời gian ức chế cảm giác, thời gian thực hiện và BMI, mức độ phong bế cảm giác và vận động.
Đối tượng và phương pháp: 120 bệnh nhân phẫu thuật từ 1/3 dưới cánh tay trở xuống tại khoa Gây mê hồi sức Quốc tế, Bệnh viện TW Huế từ 5/2017 đến tháng 6/2018. Bệnh nhân chia làm hai nhóm, nhóm I là 60 bệnh nhân được gây tê đám rối thần kinh cánh tay dưới hướng dẫn của siêu âm, nhóm II là 60 bệnh nhân gây tê đám rối thần kinh cánh tay sử dụng máy kích thích thần kinh cơ. Mỗi nhóm nhận 25ml levobupivacain 0,5% và adrenalin 1/200.000.
Kết quả: Có mối tương quan thuận chặt chẽ giữa thời gian thực hiện và BMI, tuổi và thời gian ức chế cảm giác, tương quan nghịch chặt chẽ giữa tuổi và thời gian khởi phát ức chế cảm giác. Thời gian thực hiện kỹ thuật ở nhóm I và nhóm II lần lượt là 9,82 ± 4,55 phút và 14,73 ± 4,73 phút. Tương tự như vậy thời gian khởi phát ức chế cảm giác là 6,15 ± 1,60 phút và 9,92 ± 2,88 phút; thời gian khởi phát ức chế vận động là 7,95 ± 1,05 phút và 12,63 ± 2,15 phút; thời gian ức chế cảm giác là 481,38± 116,66 phút và 319,22 ±
143,14 phút; thời gian ức chế vận động là 412,97 ± 107,32 phút và 205,88 ± 48,96 phút, sự khác biệt giữa hai nhóm có ý nghĩa thống kê.
Kết luận: Thời gian thực hiện và BMI, tuổi và thời gian khởi phát ức chế cảm giác cũng như thời gian ức chế cảm giác có mối tương quan rất chặt chẽ với nhau. Gây tê đám rối thần kinh cánh tay dưới hướng dẫn của siêu âm có ưu điểm là rút ngắn thời gian thực hiện và thời gian khởi phát ức chế cảm giác và vận động, kéo dài thời gian ức chế cảm giác và vận động

https://doi.org/10.38103/jcmhch.2020.60.4

Tài liệu tham khảo

Baloda R, Bhupal J. P. S, Kumar P et al (2016), “Supraclavicular brachial plexus block with or without dexamethasone as an adjuvant to 0.5% levobupivacaine: A comparative study”, Journal of Clinical and Diagnostic Research. 10(6), pp. 9-12.

Bruder A, Taylor N. F, Karen J Dodd and Nora Shields (2011), “Exercise reduces impairment and improves activity in people after some upper

limb fractures: a systematic review”, Journal of Physiotherapy. 57(1), pp.71-82.

Cotter J. T, Nielsen K. C, Guller G et al, “Increased body mass index and ASA physical status IV are risk factors for block failure in ambulatory surgery - an analysis of 9,342 blocks”, Can J Anesth. 51(8), pp.810–816.

Deniz M. N, Sertoz N and Ayanoglu H. O (2011), “Evaluation of the effect of local anesthetic volume and patient age on brachial plexus block with axillary approach”, Istanbul Med J 12(3), pp.113-117.

Duncan M, Shetti A. N, Tripathy D. K et al (2013), “A comparative study of nerve stimulator versus ultrasound-guided supraclavicular brachial plexus block”, Anesthesia Essays and Researches. 7(3), pp.359-364.

El Daba A. A et al (2010), “Ultrasonic guided supraclavicular brachial plexus block versus nerve stimulation technique”, Tanta Medical Sciences Journal 5(2), pp.70-73.

Ilham C et al (2014), “Efficiency of levobupivacaine, bupivacaine for supraclavicular block: a randomized double-blind comparative study”, Rev Bras Anestesiol. 64(3), pp.177-182.

Jeon D. G and Kim W. I (2010), “Cases series: ultrasound-guided supraclavicular block in 105 patients”, Korean J Anesthesiol. 58(3), pp.267-

Liu G. Y, Chen Z. Q, Jia H. I et al (2015), “The technique comparison of brachial plexus blocks by ultrasound guided with blocks by nerve stimulator guided”, Int J Clin Exp Med. 8(9), pp.16699-16703.

Mehta S. S et al (2015), “Comparative study of supraclavicular brachial plexus block by nerve stimulator vs ultrasound guided method”, NHL

Journal of Medical Sciences. 4(1), pp.49-52.

Nielsen K. C et al (2005), “Influence of obesity on surgical regional anesthesia in the ambulatory setting: An analysis of 9038 blocks”, Anesthesiology. 102(1), pp.181-188.

Ootes D, Lambers K. T and Ring D. C (2012), “The epidemiology of upper extremity injuries presenting to the emergency department in the

United States”, Hand. 7(1), pp.18-22.

Paqueron X, Boccara G, Bendahou M et al (2002), “Brachial plexus nerve block exhibits prolonged duration in the elderly”, Anesthesiology. 97(1),

pp.1245-1249.

Pavicic Saric J, Zenko J, Voncina V et al (2015), “Effects of age on onset time and duration of sensory blockade in ultrasound guided supraclavicular block”, Periodicum Biologorum. 117(2), pp.287–290.

Ratnawat A, Bhati F. S, Khatri C et al (2016), “Comparative study between nerve stimulator guided technique and ultrasound guided technique of supraclavicular nerve block for upper limb surgery”, International Journal of

Research in Medical Sciences. 4(6), pp.2101- 2106.

Schroeder K, Andrei A. C, Furlong M. J et al (2012), “The Perioperative effect of increased body mass index on peripheral nerve blockade: An analysis of 528 ultrasound guided interscalene blocks”, Rev Bras Anestesiol. 62(1), pp.28-38.

Veeresham M, Goud U, Surender P et al (2015), “Comparison between conventional technique and ultrasound guided supraclavicular brachial

plexus block in upper limb surgeries”, Journal of Evolution of Medical and Dental Sciences 4(37), pp.6465-6476.

Williams S. R, Chouinard P et al (2003), “Ultrasound guidance speeds execution and improves the quality of supraclavicular block”, Anesth Analg. 97(5), pp.1518–1523.

Đã xuất bản 07-01-2025
Toàn văn
PDF     29    6
Ngôn ngữ
Số tạp chí Số 60 (2020)
Phân mục Nghiên cứu
DOI 10.38103/jcmhch.2020.60.4
Từ khóa Gây tê đám rối thần kinh cánh tay, phẫu thuật chi trên brachial plexus block, upper limb surgeries

Creative Commons License

công trình này được cấp phép theo Creative Commons Attribution-phi thương mại-NoDerivatives 4.0 License International .

Bản quyền (c) 2020 Tạp chí Y học lâm sàng Bệnh viện Trung Ương Huế

Nguyễn, V. T., Nguyễn, T. B. Y., Nguyễn , V. Q., Phạm, T. M., & Phạm, M. Đức. (2025). Đánh giá một số yếu tố tương quan ảnh hưởng đến gây tê đám rối thần kinh cánh tay trong phẫu thuật chi trên. Tạp Chí Y học lâm sàng Bệnh viện Trung Ương Huế, (60), 5–10. https://doi.org/10.38103/jcmhch.2020.60.4