Tóm tắt
Đặt vấn đề: Tắc nghẽn đường niệu là một bệnh cảnh lâm sàng thường gặp, có thể tiến triển nặng dẫn đến shock nhiễm trùng, thậm chí tử vong. Giảm áp đường niệu bằng dẫn lưu thận qua sonde JJ ngược dòng dưới hướng dẫn của nội soi bàng quang là phương pháp xử trí phổ biến, an toàn và hiệu quả. Tuy nhiên, thủ thuật này có thể thất bại trong một số trường hợp khó như tổn thương ác tính xâm lấn lỗ niệu quản hay sỏi niệu quản kích thước lớn, bám chặt. Dẫn lưu thận qua da (Percutaneous Nephrostomy) là một giải pháp thay thế hiệu quả khi JJ ngược dòng thất bại. Nhược điểm của PCN là nguy cơ nhiễm trùng dẫn lưu, dò nước tiểu và ảnh hưởng chất lượng cuộc sống của bệnh nhân. Đặt sonde JJ niệu quản xuôi dòng qua da là một bước tiếp theo của PCN, vừa có ưu điểm của JJ kinh điển vừa hạn chế được nhược điểm của PCN. Mục tiêu của bài là đánh giá kết quả bước đầu của kỹ thuật đặt sonde JJ niệu quản xuôi dòng qua da tại Bệnh viện trường Đại học Y - Dược Huế.
Đối tượng, phương pháp: Nghiên cứu hồi cứu trên 05 bệnh nhân có tắc nghẽn đường niệu được đặt JJ xuôi dòng từ 8/2019 - 8/2022 tại Bệnh viên trường Đại học Y Dược Huế. Đặt JJ xuôi dòng qua da được chỉ định khi JJ ngược dòng thất bại và bệnh nhân chưa có biểu hiện shock nhiễm trùng trên lâm sàng. Bệnh nhân được gây tê tại chỗ, tiếp cận từ đài dưới dưới hướng dẫn của siêu âm. Các
bước tiếp theo tương tự kỹ thuật PCN kinh điển. Dây dẫn 0.035” được luồn qua chỗ tắc vào bàng quang, sau đó được thay bằng dây dẫn cứng. Có thể nong chỗ hẹp thành bàng quang bằng bóng áp lực thấp nếu cần thiết. Thành công về kỹ thuật được định nghĩa là đặt được JJ (cỡ 7F, dài 20cm) vào đường dẫn niệu, đầu trên cố định ở bể thận, đầu dưới trong lòng bàng quang. Thành công về lâm sàng là bệnh nhân ra viện ổn định.
Kết quả: Có 5 bệnh nhân (nam/nữ 1/4, tuổi từ 49 - 76) được đặt tổng cộng 8 sonde JJ xuôi dòng qua da.Tất cả bệnh nhân đều có tăng creatinin máu trước can thiệp và có thận ứ nước độ I - II trên CLVT. Tỷ lệ thành công về mặt kỹ thuật là 100%. Có 2 bệnh nhân tắc nghẽn đường dẫn niệu do sỏi niệu quản (JJ xuôi dòng 1 bên) và 3 bệnh nhân tắc nghẽn do nguyên nhân ác tính (JJ xuôi dòng 2 bên). Không có biến chứng được ghi nhận trong và sau thủ thuật. Tại thời điểm ra viện, tất cả bệnh nhân đều có tình trạng ổn định.
Kết luận: Đặt sonde JJ xuôi dòng qua da là một giải pháp hỗ trợ an toàn và hiệu quả trong việc dẫn lưu giảm áp đường niệu khi đặt sonde JJ ngược dòng thất bại
Tài liệu tham khảo
Pietropaolo A, Seoane LM, Abadia AA - S, Geraghty R, Kallidonis P, Tailly T, et al. Emergency upper urinary tract decompression: double-J stent or nephrostomy? A European YAU/ESUT/EULIS/BSIR survey among urologists and radiologists. World Journal of Urology. 2022;40(7):1629-1636.
Hausegger KA, Portugaller HR. Percutaneous nephrostomy and antegrade ureteral stenting: technique indications complications. European Radiology. 2006; 16(9):2016-2030.
van der Meer RW, Weltings S, van Erkel AR, Roshani H, Elzevier HW, van Dijk LC, et al. Antegrade Ureteral Stenting is a Good Alternative for the Retrograde Approach. Current Urology. 2017;10(2):87-91.
Ganatra AM , Loughlin KR. The Management of Malignant Ureteral Obstruction Treated with Ureteral Stents. Journal of Urology. 2005;174(6):2125-2128.
Pabon - Ramos WM, Dariushnia SR, Walker TG, Janne d’Othée B, Ganguli S, Midia M, et al. Quality Improvement Guidelines for Percutaneous Nephrostomy. Journal of Vascular and Interventional Radiology. 2016;27(3):410-414.
Tlili G, Ammar H, Dziri S, ben Ahmed K, Farhat W, Arem S, et al. Antegrade double-J stent placement for the treatment of malignant obstructive uropathy: A retrospective cohort study. Annals of Medicine and Surgery. 2021;69102726.
Hsu L, Li H, Pucheril D, Hansen M, Littleton R, Peabody J, et al. Use of percutaneous nephrostomy and ureteral stenting in management of ureteral obstruction. World Journal of Nephrology. 2016;5(2):172.
De Lorenzis E, Lievore E, Turetti M, Gallioli A, Galassi B, Boeri L, et al. Ureteral Stent and Percutaneous Nephrostomy in Managing Malignant Ureteric Obstruction of Gastrointestinal Origin: A 10 Years’ Experience. Gastrointestinal Disorders. 2020;2(4):456-468.
Sammon JD, Ghani KR, Karakiewicz PI, Bhojani N, Ravi P, Sun M, et al. Temporal Trends, Practice Patterns, and Treatment Outcomes for Infected Upper Urinary Tract Stones in the United States. European Urology. 2013;64(1):85-92.
Goldsmith ZG, Oredein - McCoy O, Gerber L, Bañez LL, Sopko DR, Miller MJ, et al. Emergent ureteric stent vs percutaneous nephrostomy for obstructive urolithiasis with sepsis: patterns of use and outcomes from a 15-year experience. BJU International. 2013;112(2):E122-E128.
Al - Hajjaj M, Sabbagh AJ, Al - Hadid I, Anan MT, Nour kazan M, Alali Aljool A, et al. Comparison complications rate between double - J ureteral stent and percutaneous nephrostomy in obstructive uropathy due to stone disease:A randomized controlled trial. Annals of Medicine and Surgery. 2022;81104474.
Đã xuất bản | 06-01-2025 | |
Toàn văn |
|
|
Ngôn ngữ |
|
|
Số tạp chí | Số 88 (2023) | |
Phân mục | Nghiên cứu | |
DOI | 10.38103/jcmhch.88.16 | |
Từ khóa | Dẫn lưu thận qua da, sonde JJ niệu quản, tắc nghẽn đường dẫn niệu Percutaneous nephrostomy, double - J catheters, urinary tract obstruction |

công trình này được cấp phép theo Creative Commons Attribution-phi thương mại-NoDerivatives 4.0 License International . p>
Bản quyền (c) 2023 Tạp chí Y học lâm sàng Bệnh viện Trung Ương Huế