Thải ghép gan cấp điều trị thành công theo phác đồ hỗn hợp giữa thải ghép qua trung gian kháng thế và qua trung gian tế bào T

Tải xuống

Dữ liệu tải xuống chưa có sẵn.
PDF     7    3

Tóm tắt

U Thải ghép cấp sau ghép gan bao gồm thải ghép cấp qua trung gian tế bào T (TCMR) và thải ghép qua trung gian kháng thể (AMR). Nếu như TCMR là kết quả của phản ứng miễn dịch qua trung gian tế bào T của người nhận tấn công vào mảnh ghép của người hiến, dẫn đến tổn thương mảnh ghép, với tần suất 10 - 40% sau ghép thì AMR là một biến chứng rất hiếm gặp trong ghép gan với tần suất được báo cáo là 0,3 - 2%, nhưng có thể để lại hậu quả rất nghiêm trọng như mất mảnh ghép sớm hay xơ gan. Xác định và điều trị AMR còn gặp nhiều khó khăn do sự phức tạp trong chẩn đoán miễn dịch và mô bệnh học, thiếu phác đồ điều trị cũng như theo dõi lâu dài. Điều trị tình trạng thái ghép qua trung gian kháng thể sau ghép gan thường dựa trên kinh nghiệm của các trung tâm và trên nhóm ghép thận, bao gồm corticoid, trao đổi huyết tương, IVIG liều cao có thể kết hợp với Rituximab. Trong báo cáo này, chúng tôi báo cáo một ca thải ghép thể hỗn hợp qua trung gian kháng thể và qua trung gian tế bào T trên bệnh nhi teo mật bẩm sinh - bệnh gan giai đoạn cuối sau ghép gan với bằng chứng về sinh thiết gan và sự tăng cao của kháng thể kháng HLA (HLA PRA lớp I và lớp II).

https://doi.org/10.38103/jcmhch.93.11

Tài liệu tham khảo

Lee BT, Fiel MI, Schiano TD, Antibody-mediated rejection of the liver allograft: An update and a clinico-pathological perspective. Journal of Hepatology, 2021;75(5):1203-1216.

Ronca V, Wootton G, Milani C, Cain O, The immunological basis of liver allograft rejection. Frontiers in immunology, 2020;11:2155.

Lee K-B, What Is Antibody-Mediated Rejection in Histologic Diagnosis in Liver Recipients? The Journal of the Korean Society for Transplantation, 2017;31(1):1-5.

Demetris AJ, Bellamy C, Gandhi C, Prost S, Nakanuma Y, Stolz D, Functional immune anatomy of the liver as an allograft. American journal of transplantation, 2016;16(6):1653-1680.

Robinson TJ, Hendele JB, Gimferrer I, Leca N, Biggins SW, Reyes JD, et al., Acute liver failure secondary to acute antibody mediated rejection after compatible liver transplant: A case report. World Journal of Hepatology, 2022;14(1):287.

Höroldt BS, Burattin M, Gunson BK, Bramhall SR, Nightingale P, Hübscher SG, et al., Does the Banff rejection activity index predict outcome in patients with early acute cellular rejection following liver transplantation? Liver transplantation, 2006;12(7):1144-1151.

Orandi BJ, Alachkar N, Kraus ES, Naqvi F, Lonze BE, Lees L, et al., Presentation and outcomes of C4d‐negative antibody‐mediated rejection after kidney transplantation. American Journal of Transplantation, 2016;16(1):213-220.

Zarrinpar A, Busuttil RW, Evading antigens ABO- incompatible liver transplantation. Nature Reviews Gastroenterology & Hepatology, 2015;12(12):676-678.

Demetris AJ, Zeevi A, O’Leary JG, ABO-compatible liver allograft antibody-mediated rejection: an update. Current opinion in organ transplantation, 2015;20(3):314.

Demetris AJ, Bellamy C, Hübscher S, O’leary J, Randhawa P, Feng S, et al., 2016 comprehensive update of the Banff working group on liver allograft pathology: introduction of antibody-mediated rejection. American Journal of Transplantation, 2016;16(10):2816-2835.

Đã xuất bản 05-12-2023
Toàn văn
PDF     7    3
Ngôn ngữ
Số tạp chí Số 93 (2024)
Phân mục Báo cáo trường hợp
DOI 10.38103/jcmhch.93.11
Từ khóa Thải ghép qua trung gian kháng thể, thải ghép qua trung gian tế bào T Antibody - mediated rejection, T cell - mediated rejection

Creative Commons License

công trình này được cấp phép theo Creative Commons Attribution-phi thương mại-NoDerivatives 4.0 License International .

Bản quyền (c) 2024 Tạp chí Y học lâm sàng Bệnh viện Trung Ương Huế

Na, B. T. L., Thạch, H. N., Hoa, N. P. A., Dương, Đặng Ánh, Đô, Đỗ V., Hiền, P. D., & Hoàn, V. M. (2023). Thải ghép gan cấp điều trị thành công theo phác đồ hỗn hợp giữa thải ghép qua trung gian kháng thế và qua trung gian tế bào T. Tạp Chí Y học lâm sàng Bệnh viện Trung Ương Huế, (93), 62–66. https://doi.org/10.38103/jcmhch.93.11