Đánh giá sự thay đổi các chỉ số huyết học, sinh hóa trong giai đoạn sốc bỏng tại Khoa Phỏng - Tạo hình, Bệnh viện Chợ Rẫy

Tải xuống

Dữ liệu tải xuống chưa có sẵn.

Tệp bổ sung

PDF     0    0

Tóm tắt

Mục tiêu: Đánh giá sự thay đổi các chỉ số huyết học, sinh hóa trong giai đoạn sốc bỏng giữa 2 nhóm bệnh nhân: có và không có truyền máu trong trị liệu. Đối tượng và phương pháp: Bệnh nhân có sốc bỏng với diện tích bỏng trên 30% diện tích cơ thể được điều trị tại Khoa Phỏng - Tạo hình, Bệnh viện Chợ Rẫy. Chúng tôi sẽ chia làm 2 nhóm: có truyền và không truyền máu trong điều trị. Phương pháp nghiên cứu hồi cứu. Kết quả: 475 bệnh nhân sốc bỏng nhập viện trong 3 năm (từ 09/2014 tới 09/2016). Trung bình nồng độ Hct 37,9±5,5% và nồng độ Hb 146,1±29 g/L số lượng BC: 3,7±11,4 G/L, số lượng TC 169,7±91,9 G/L. Trung bình giá trị PT 15,5±2,3′′ APTT 29,3±4,1′′ và nồng độ Fibrinogen trong máu 3,8±0,8 g/l. Trung bình nồng độ các chất điện giải trong máu như Na 137,5±3,1 mmol/l, K 3,4±0,5 mmol/l, Ca2+2,1±0,2 mmol/l. Trung bình nồng độ Albumin 3,8±0,8g/L. Giữa 2 nhóm bệnh nhân có sự khác biệt nhau có ý nghĩa thống kê ở mức 95%. Kết luận: Có sự thay đổi đáng kể về các chỉ số huyết học, sinh hóa trong giai đoạn sốc bỏng giữa 2 nhóm bệnh nhân truyền máu và không truyền máu trong giai đoạn sốc bỏng.

Tài liệu tham khảo

Bộ Y tế (2013), Thông tư Hướng dẫn hoạt động truyền máu, Hà Nội.

Lê Thế Trung (2003), Bỏng - Những kiến thức chuyên ngành, NXB Y học.

Nguyễn Quang Đông (2015), Đánh giá tình trạng rối loạn đông máu ở bệnh nhân bỏng nặng, Tạp chí Y học Thảm họa và Bỏng, tr. 191-195.

Phạm Thị Minh Đức (2001), Sinh lý học, NXB Y học.

Trần Đoàn Đạo (2015), Tình hình điều trị bỏng và di chứng tại Bệnh viện Chợ Rẫy trong 3 năm 2012-2014, Tạp chí Y học thảm họa và Bỏng, tr. 25-29.

Trần Văn Bé (2004), Truyền máu trong các bệnh lý, NXB Y học.

Ali SA, Hamiz-Ul-Fawwad S, Al-Ibran E, et al. (2016), Clinical and demographic features of burn injuries in karachi: a six-year experience at the burns centre, civil hospital, Karachi, Ann Burns Fire Disasters, 29(1), pp. 4-9.

David N. Herndon (2012), Total Burn Care, 4th, Saunders, Elsevier.

Karami Matin B, Karami Matin R, Ahmadi Joybari T, et al. (2012), Epidemiological data, outcome, and costs of burn patients in Kermanshah, Ann Burns Fire Disasters, 25(4), pp. 171-7.

Kowal-Vern, A. et al. (1992), The effect of burn wound size on hemostasis: a correlation of the hemostatic changes to the clinical state, J Trauma, 33(1), pp. 50-56.

Linares HA (1996), From wound to scar, Burns, 22(5), pp. 339-52.

Rai SM, Karki B, Nakarmi K, et al. (2014), Retrospective study on early outcome of acute burn injuries treated at Nepal Cleft and Burn Centre of Public Health Concern Trust-Nepal, J Nepal Health Res Counc, 12(28), pp. 195-9.

Wang, H. L. (1993), Prethrombotic state in burn patients, Zhonghua Zheng Xing Shao Shang Wai Ke Za Zhi. 9(6), pp. 441-446, 479.

Wu, G. et al. (2016), Blood transfusions in severe burn patients: Epidemiology and predictive factors, Burns, 42(8), pp. 1721-1727.

Đã xuất bản 31-10-2017
Toàn văn
Ngôn ngữ
Số tạp chí Số 46 (2017)
Phân mục Nghiên cứu
DOI
Từ khóa Bỏng, Sốc bỏng, Bệnh viện Chợ Rẫy. Burn, shock burn, mortality, Cho Ray hospital

Creative Commons License

công trình này được cấp phép theo Creative Commons Attribution-phi thương mại-NoDerivatives 4.0 License International .

Bản quyền (c) 2025 Tạp chí Y học lâm sàng Bệnh viện Trung Ương Huế

Tô Phước Hải, & Lê Hoàng Oanh, Ngô Đức Hiệp, Võ Thị Kim Hoa, Vũ Trịnh Thế Quân. (2017). Đánh giá sự thay đổi các chỉ số huyết học, sinh hóa trong giai đoạn sốc bỏng tại Khoa Phỏng - Tạo hình, Bệnh viện Chợ Rẫy. Tạp Chí Y học lâm sàng Bệnh viện Trung Ương Huế, (46), 56–63. Truy vấn từ https://jcmhch.com.vn/index.php/home/article/view/2190