Tóm tắt
Bệnh nhân (BN) ung thư vòm mũi họng (UTVMH) khi xạ trị có thể xuắt hiện những biến chứng
ảnh hưởng tới kết quả điều trị và làm giảm chất lượng cuộc sống. Mục tiêu: Mô tả các biến chứng thường gặp ở bệnh nhân UTVMH được xạ trị và đánh giá hiệu quả của việc chăm sóc tại chỗ các biến chứng cắp tính đó.
Phương pháp và đối tượng nghiên cứu: 48 bệnh nhân UTVMH xạ trị gia tốc tại Trung tâm Y
học hạt nhân & Ung bướu Bệnh viện Bạch Mai (TT YHHN&UB BVBM). Nghiên cứu tiến cứu kết
hợp can thiệp có so sánh trước sau.
Kết quả: Sau xạ trị 3-4 tuần đạt liều 30 - 40Gy, 100% bệnh nhân gặp biến chứng cắp tính da & niêm mạc ở các mức độ khác nhau như sau: viêm da vùng tia 62,5%, viêm niêm mạc họng miệng
58%, mắt vị giác 37,5%, khô miệng 50%. Sau 5 tuần chăm sóc tình trạng viêm da ở độ 2 giảm từ 77,1% xuống 0%, viêm niêm mạc họng miệng độ 2 giảm từ 37,5% xuống 6,3%, triệu chứng khô
miệng độ 3 giảm từ 33,3% xuống 18,7%, triệu chứng mất vị giác độ 2 giảm 48% xuống 10,4%.
Kết luận: Tỷ lệ gặp các biến chứng cấp tính trên da, niêm mạc vùng tia ở bệnh nhân
UTVMH xạ trị gia tốc là khá cao. Việc áp dụng các biện pháp chăm sóc tại chỗ đã làm thuyên
giảm các biến chứng đó góp phần vào thành công của điều trị và nâng cao chất lượng cuộc sống cho người bệnh.
Tài liệu tham khảo
Lê Chính Đại (2007), Nghiên cứu điều trị phối hợp hóa — xạ trị đơn thuần bệnh ung thư vòm mũi họng giai đoạn III, IV (Mo), Luận án Tiến sỹ, Đại học Y Hà Nội.
Mai Trọng Khoa, Phạm Văn Thái, Trần Đình Hà và cộng sự (2008), Đánh giá kết quả bước đầu trong điều trị UTVMH bằng hệ thống LINAC - CT Sim tại khoa YHHN&UB BV Bạch Mai, Tạp chí ung thư học thực hành, 8.
Phùng Thị Huyền (2006), Đánh giá kết quả bước đầu phác đồ hóa xạ trị đồng thời trên bệnh nhân ung thư vòm họng giai đoạn III, IV tại Bệnh viện K, Luận văn tốt nghiệp Bác sỹ nội trú, Trường Đại học Y Hà Nội.
Nguyễn Hữu Thợi (1995), Nghiên cứu xây dựng phác đồ điều trị ung thư vòm mũi họng qua 458 bệnh nhân từ 1983 - 1993, Luận án PTS khoa học Y dược, 1995.
Choi PH, Suen MW, Huang Dp, Lo KW, Lee JC (1993), Nasopharyngeal carcinima: genetic changes, Epstein - Barr virus infection, or both. A clinical and molecular study of 36 patiens, Cancer, 72 (10), pp.2873 -8.
| Đã xuất bản | 13-07-2012 | |
| Toàn văn |
|
|
| Ngôn ngữ |
|
|
| Số tạp chí | Số 11 (2012) | |
| Phân mục | Nghiên cứu | |
| DOI | ||
| Từ khóa |
công trình này được cấp phép theo Creative Commons Attribution-phi thương mại-NoDerivatives 4.0 License International . p>
Bản quyền (c) 2012 Tạp chí Y học lâm sàng Bệnh viện Trung Ương Huế