Tóm tắt
Đặt vấn đề: Trong lĩnh vực phục hình răng giả, implant nha khoa càng ngày càng chứng tỏ
tính ưu việt về khả năng phục hồi cả thẩm mỹ cũng như chức năng ăn nhai cho bệnh nhân mất
răng. Ngày nay đã có nhiều nghiên cứu và báo cáo cả trong và ngoài nước về thành công của
implant nha khoa mang lại cho bệnh nhân cũng như các nhược điểm của phương pháp này. Một
trong những nhược điểm lớn của cấy ghép implant là muốn đạt kết quả tốt cần phải có đủ chiều
dài và chiều rộng xương cần thiết, vì vậy vấn đề về ghép xương trong cấy implant được các nhà
nghiên cứu càng ngày càng dành nhiều sự quan tâm hơn, đặc biệt ở vùng răng sau hàm trên do
tính chất tiêu xương bản ngoài nhiều cho nên sống hàm ngày càng có xu hướng di chuyển vào
gần đáy xoang hàm dẫn đến nguy cơ cấy implant vào trong xoang dễ xảy ra.
Mục tiêu nghiên cứu: Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, phim cắt lớp vi tính hình nón và đánh
giá kết quả cấy ghép implant trên bệnh nhân mất răng có nâng xoang kín
Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu trên 22 bệnh nhân, 22 vị trí răng mất răng có nhu cầu
điều trị ghép xương nâng xoang kín và phục hình bằng kỹ thuật cấy implant tại Trung Tâm Răng
Hàm Mặt Bệnh viện Trung Ương Huế từ tháng 11 năm 2018 đến tháng 10 năm 2019
Kết quả: Ttuổi trung bình cao là 49,7, thường gặp từ 45 – 60 tuổi, nam chiếm tỷ lệ 54,6%, nữ
chiếm tỷ lệ 45,4%. Nguyên nhân mất răng đa dạng: chủ yếu là do sâu răng với tỷ lệ 59,1%, bệnh
lý quanh răng chiếm tỷ lệ 36,3%, chấn thương chiếm 4,6%. Thời gian mất răng kéo dài, thường
trên 2 năm, mất nhiều các răng hàm lớn hàm trên với tỷ lệ 72,3%. Có chiều cao xương có ích rất
thấp, trung bình là 4 ± 1,86 mm, thấp nhất là 1,7 mm, cao nhất là 8 mm. Chiều rộng trung bình
bằng 6,6 mm ± 0,86 mm, hẹp nhất 4,7 mm, rộng nhất là 8,6 mm. kết quả sau phẫu thuật 1 tuần tỷ
lệ bệnh nhân đạt kết quả tốt 81,8%, khá với tỷ lệ 18,2%. Sau 1 tháng sẹo mổ liền tốt tỷ lệ 100%.
Sau 6 tháng xương mới hình thành ở tất cả các bệnh nhân, có nhìn thấy các bè xương trên phim
X quang, các implant tích hợp xương tốt, đạt mức độ vững chắc sẵn sàng làm phục hình
Kết Luận: phương pháp này đặc biệt biệt phù hợp với những bệnh nhân thời gian mất răng
sau hàm trên lâu ngày, dẫn đến thiếu chiều cao xương nghiêm trọng có nhu cầu cấy ghép implant
để phục hình ăn nhai.
Tài liệu tham khảo
Lê Chí Dũng, Trần Bắc Hải (1995), “Mô ghép
xương từ nguyên lý sinh học đến ứng dụng lâm
sàng”, Tài liu nghiên cứu Trung tâm đào tạo và
Bồi dưỡng cán bộ y tế thành phố Hồ Chí Minh,
tr5- 10.
Trịnh Đình Hải (1986), “Một số nhận xét vùng
lợi dính”, Luận văn tốt nghip Bác sỹ nội trú,
Đại học Y Hà Nội, tr.41
Nguyễn Văn Khoa (2012) “Phẫu thuật nâng
xoang – ghép xương trong cấy ghép nha khoa:
Đánh giá kết quả tại bnh vin Răng hàm mặt
Trung ương 2006 – 2012 “bài báo đăng ký Tạp
chí Y học thực hành 2012
Trịnh Hồng Mỹ (2012) “Nghiên cứu kỹ thuật cấy
ghép implant trên bnh nhân mất răng có ghép
xương “Luận văn tiến sỹ Y học, Vin nghiên cứu
khoa học Y dược lâm sàng 108, tr 37 – 57.
Hoàng Đạo Bảo Trâm (2006), ” Tổng quan tích
hợp xương” tiểu luận tốt nghip Thạc sỹ - trường
Đại học Mediterranee (Marseille) tr 3-5
Trần Văn Trường, Trịnh Đình Hải (2002), “Điều
tra sức khoẻ răng ming toàn quốc ”, Nhà xuất bản Y học, tr.62 - 63.
Boyne PJ (1993), “The use of bone graft systems
in maxillary implant surgery “Proceedings of the
th Annual Meeting of the American Institute of
Oral Biology, Palm Springs CA, Oct 29 – Nov 2,
pp 107 - 114.
Branemark P, Adell R, Albrektsson T el al
(1984), “An experimental and clinical study of
osseointergrated implants penetrating the nasal
cavity and maxillary sinus “, J Oral Maxillofac
Sur pp 497.
Misch C. E (1993, “Contemporary implant
dentistry “, 1st edition pp 419-485.
Sánchez-Recio C, Peñarrocha-Diago Maria,
Peñarrocha-Diago Miguel el al (2010),
“Maxillary sinus lift performed using ultrasound.
Evaluation of 21 patients “Med Oral Patol Oral
Cir Bucal. Mar 1;15 (2):pp 371-374

công trình này được cấp phép theo Creative Commons Attribution-phi thương mại-NoDerivatives 4.0 License International . p>
Bản quyền (c) 2025 Tạp chí Y học lâm sàng Bệnh viện Trung Ương Huế