Đánh giá kết quả phẫu thuật nội soi giảm khối trong điều trị ung thư buồng trứng giai đoạn muộn sau hóa trị tiền phẫu tại Bệnh viện Trung ương Huế

Tải xuống

Dữ liệu tải xuống chưa có sẵn.
PDF     6    0

Tóm tắt

Mục tiêu: Đánh giá tính khả thi và hiệu quả của phẫu thuật nội soi điều trị ung thư buồng trứng giai đoạn muộn sau khi hóa trị tân bổ trợ.

Phương pháp: Nghiên cứu hồi cứu, mô tả cắt ngang trên tổng số bệnh nhân ung thư buồng trứng giai đoạn muộn (giai đoạn IIIC-IV, theo phân loại FIGO) được phẫu thuật giảm khối qua nội soi sau 3 chu kỳ hóa chất tân bổ trợ, từ tháng 1 năm 2012 đến tháng 1 năm 2018, tại khoa Phụ sản, BVTW Huế.

Kết quả: Tổng cộng có 32 bệnh nhân được thu nhận. Độ tuổi trung bình là 51 tuổi (từ 25–67 tuổi), chỉ số khối cơ thể trung bình là 24,4 (từ 20-41). Tất cả các bệnh nhân có đáp ứng lâm sàng tốt sau 3 đợt hóa trị tân bổ trợ. Phần lớn bệnh nhân được phẫu thuật nội soi giảm khối hoàn toàn với kết quả tốt (56,25%). Thời gian mổ trung bình là 150 phút (tử 75-330 phút), lượng máu mất trung bình là 85 ml (từ 55-220 mL). Số lượng trung bình các hạch chậu được phẫu tích là 14 (từ 09-21 hạch). Có 1 trường hợp tai biến trong mổ (3,13%) và 2 trường hợp biến chứng gần sau mổ (6,26%). Thời gian nằm viện trung bình là là 5 ngày (từ 4-13 ngày). Thời gian theo dõi trung bình là 18 tháng (từ 5-56 tháng). 28 bệnh nhân chưa thấy tái phát tại thời điểm này.

Kết luận: Phẫu thuật nội soi với các bác sĩ chuyên khoa có kinh nghiệm có tính khả thi và có thể làm giảm tác động bất lợi của phẫu thuật xâm lấn đối với bệnh nhân ung thư buồng trứng giai đoạn muộn sau khi hóa trị liệu tân bổ trợ, là một phương pháp thay thế hấp dẫn cho phẫu thuật mở bụng truyền thống. Những lợi ích đáng kể của cách tiếp cận này là ít xâm lấn, ít mất máu trong quá trình phẫu thuật và thời gian hồi phục ngắn.

Tài liệu tham khảo

Vasileios D. Sioulas, Maria B. Schiavone, DavidKadouri, Oliver Zivanovic, et al. Optimal primary management of bulky stage IIIC ovarian, fallopian tube and peritoneal carcinoma: Are the only options complete gross resection at primary debulking surgery or neoadjuvant chemotherapy?.Gynecol Oncol, 2017; 97:640-651.

Gennaro Daniele, Domenica Lorusso, Giovanni Scambia, Sabrina C. Cecere, MariaOrnellaNicoletto. Feasibility and outcome of interval debulking surgery (IDS) after carboplatin-paclitaxel-bevacizumab (CPB): A subgroup analysis of the MITO-16A-MaNGO OV2A phase 4 trial. Gynecol Oncol, 2016, 345: 543-601.

Weihong Yang, Zhongping Cheng, Hong Dai, Changchun Long, Hailun Liu, et al. Laparoscopic-based score assessment combined with a multiple disciplinary team in management of recurrent ovarian cancer: A single-center prospective study for personalized surgical therapy. Medicine, 2017. 234: 457-489.

Siegel R, Ma J, Zou Z, et al. Cancer statistics, 2014. CACancer J Clin. 2014;64:9-29.

Carney ME, Lancaster JM, Ford C, et al. A population-based study of patterns of care for ovarian cancer: who is seen by a gynecologic oncologist and who is not? Gynecol. Oncol. 2002; 84: 36-42.

Vergote I, Trope CG, Amant F, et al. Neoadjuvant chemotherapy or primary surgery in stage IIIC or IV ovarian cancer. N Engl J Med. 2010; 363: 943-953.

Vergote I, De Wever I, Tjalma W, et al. Neoadjuvant chemotherapy or primary debulking surgery in advanced ovarian carcinoma: a retrospective analysis of 285 patients. Gynecol Oncol. 1998;71:431-436.

Liu CS, Nagarsheth NP, Nezhat FR. Laparoscopy and ovarian cancer: a paradigm change in the management of ovarian cancer? J Minim Invasive Gynecol. 2009;16:250-262.

Dindo D, Demartines N, Clavien PA. Classification of surgical complications a new proposal with evaluation in a cohort of 6336 patients and results of a survey. Ann Surg 2004; 240:205–13.

Therasse P, Arbuck SG, Eisenhauer EA, et al. New guidelines to evaluate the response to treatment in solid tumors. European Organization for Research and Treatment of Cancer, National Cancer Institute of the United States, National Cancer Institute of Canada. J Natl Cancer Inst. 2000;92:205-216.

Barletta F, Corrado G, Vizza E. Use of a new instruments in the management of total laparoscopic radical hysterectomy (TLRH). J Minim Invasive Gynecol. 2014;21:S89.

Amara DP, Nezhat C, Teng NN, et al. Operative laparoscopy in the management of ovarian cancer. Surg Laparosc Endosc. 1996;6:38-45.

Chi DS, Franklin CC, Levine DA, et al. Improved optimal cytoreduction rates for stages IIIC and IV epithelial ovarian, fallopian tube, and primary peritoneal cancer: a change in surgical approach. Gynecol Oncol. 2004;94:650-654.

Da Costa Miranda V, de Souza Fede A B, Dos Anjos CH, et al. Neoadjuvant chemotherapy with six cycles of carboplatin and paclitaxel in advanced ovarian cancer patients unsuitable for primary surgery: safety and effectiveness. Gynecol Oncol. 2014;132:287-291.

Rose PG, Nerenstone S, Brady MF, et al. Secondary surgical cytoreduction for advanced ovarian carcinoma. N Engl J Med. 2004;351:2489-2497.

Đã xuất bản 27-08-2018
Toàn văn
PDF     6    0
Ngôn ngữ
Số tạp chí Số 50 (2018)
Phân mục Nghiên cứu
DOI
Từ khóa ung thư buồng trứng, nội soi giảm khối, hóa trị liệu tân bổ trợ Ovarian cancer, Laparoscopic cytoreduc, Neoadjuvant chemotherapy

Creative Commons License

công trình này được cấp phép theo Creative Commons Attribution-phi thương mại-NoDerivatives 4.0 License International .

Bản quyền (c) 2025 Tạp chí Y học lâm sàng Bệnh viện Trung Ương Huế

Tú, C. K., Phương, L. S., Toàn, L. M., An, B. C., & Nhân, L. T. Ý. (2018). Đánh giá kết quả phẫu thuật nội soi giảm khối trong điều trị ung thư buồng trứng giai đoạn muộn sau hóa trị tiền phẫu tại Bệnh viện Trung ương Huế. Tạp Chí Y học lâm sàng Bệnh viện Trung Ương Huế, (50), 85–90. Truy vấn từ https://jcmhch.com.vn/index.php/home/article/view/1408