I. ĐẶT VẤN ĐỀ

Liền vết thương là một quá trình sinh lý phức tạp, bao gồm nhiều giai đoạn liên tiếp nhằm khôi phục tính toàn vẹn của mô sau tổn thương [1-3]. Quá trình này chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố nội sinh và ngoại sinh, trong đó dinh dưỡng đóng một vai trò quan trọng không kém. Dinh dưỡng hợp lý giúp cung cấp các chất nền thiết yếu cho sự tổng hợp collagen, hình thành mô hạt, tăng sinh mạch máu và cải thiện phản ứng miễn dịch, từ đó thúc đẩy quá trình liền vết thương [4, 5]. Ngược lại, suy dinh dưỡng hoặc mất cân bằng vi chất có thể làm chậm quá trình phục hồi, tăng nguy cơ nhiễm trùng và kéo dài thời gian nằm viện [6, 7].

Tổn thương mô mềm là tình trạng phổ biến trong chấn thương chỉnh hình, bao gồm vết thương phần mềm do tai nạn, phẫu thuật hoặc các bệnh lý nền như tiểu đường, suy tĩnh mạch. Tại Khoa Bỏng & PTTH DC, Bệnh viện Trung ương Huế, số lượng bệnh nhân gặp các tổn thương mô mềm ngày càng gia tăng, đặt ra yêu cầu cấp thiết về các biện pháp hỗ trợ quá trình liền thương nhằm rút ngắn thời gian điều trị và nâng cao chất lượng sống cho người bệnh.

Mặc dù vai trò của dinh dưỡng trong quá trình liền vết thương đã được đề cập trong nhiều nghiên cứu trên thế giới, nhưng tại Việt Nam, số lượng nghiên cứu đánh giá cụ thể mối liên quan này vẫn còn hạn chế. Do đó, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này với mục tiêu làm rõ mối quan hệ giữa tình trạng dinh dưỡng và tốc độ phục hồi vết thương, từ đó cung cấp thêm bằng chứng khoa học hỗ trợ xây dựng các chiến lược can thiệp dinh dưỡng phù hợp cho bệnh nhân chấn thương trong tương lai.

II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Đối tượng

Tiến hành trên 20 bệnh nhân (BN) 18 tuổi trở lên có tổn thương mô mềm, điều trị nội trú tại Khoa Bỏng & PTTH DC, bệnh viện TW Huế. Loại trừ những bệnh nhân có tiền sử ung thư, bệnh nhân đang trong tình trạng nặng như nhiễm trùng nặng, bệnh lý nội khoa như bệnh gan, tim và thận, và các biến chứng nghiêm trọng liên quan. Sử dụng phương pháp chọn mẫu thuận tiện, người bệnh hoặc người nhà đồng ý tham gia nghiên cứu.

2.2. Phương pháp nghiên cứu

Thời gian và địa điểm nghiên cứu: Tháng 01- Tháng 04 năm 2025, Khoa Bỏng & PTTH DC, bệnh viện TW Huế

Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu theo dõi tiến cứu

Phương tiện, vật liệu nghiên cứu: Hồ sơ bệnh án, các biểu mẫu đánh giá tình trạng dinh dưỡng bệnh nhân; Cân và thước đo; Bệnh án nghiên cứu, giấy bóng kính, điện thoại, laptop/ máy tính.

Các chỉ số nghiên cứu: Thông tin chung: Tuổi, giới, tác nhân gây tai nạn, diện tích vết thương, vị trí tổn thương…; Đánh giá tình trạng dinh dưỡng: chỉ số nhân trắc (CC, CN, BMI), bộ công cụ SGA; Khẩu phần ăn: Khẩu phần ăn trung bình trong 7 ngày, thu thập theo mẫu soạn sẵn (Kcal, Protein, Vitamin C và Kẽm/ ngày); Diện tích vết thương (cm²) được tính bằng phương pháp áp giấy bóng kính kẻ ô vuông (mỗi ô là 1x1 cm). Tỷ lệ liền vết thương (Wound healing rate - WHR) tại các thời điểm sau 1 tuần tới khởi tính theo công thức sau [8, 9]:

WHR = (Diện tích vết thương ban đầu - Diện tích vết thương hiện tại) /Diện tích vết thương ban đầu

Kết quả trị giá: WHR = 1: Liền vết thương (LVT) hoàn toàn; WHR = 0: Không có dấu hiệu LVT; WHR > 0: vết thương giảm diện tích; WHR < 0: vết thương tăng diện tích.

Biến chứng vết thương: Có/Không ghi nhận các dấu hiệu nhiễm trùng (sưng, nóng, đỏ, đau, chảy mủ, có dấu hiệu hoại tử).

Nội dung nghiên cứu: Thu thập dữ liệu về khẩu phần ăn 24 giờ của đối tượng nghiên cứu: Ghi tất cả các thực phẩm (kể cả đồ uống) được đối tượng tiêu thụ 24h (kể từ lúc ngủ dậy buổi sáng hôm qua cho đến trước lúc thức dậy của sáng hôm sau) trong khoảng thời gian 7 ngày. Tất cả đối tượng nghiên cứu được ghi lại khẩu phần ăn bằng cách chụp ảnh suất ăn trước khi ăn, ghi lại lượng thực phẩm ăn thừa còn lại của mỗi bữa, từ đó tính ra lượng thực phẩm tiêu thụ. Bữa ăn phụ cũng được ghi quan sát trực tiếp kết hợp với hỏi người chăm sóc và đối tượng nghiên cứu. Tính toán giá trị dinh dưỡng của khẩu phần theo phần mềm do Khoa Dinh dưỡng xây dựng dựa trên số liệu của Bảng thành phần thực phẩm Việt Nam 2007.

Đánh giá khẩu phần ăn của đối tượng nghiên cứu: Về năng lượng của khẩu phần đánh giá theo hướng dẫn của tài liệu: “Những vấn đề cơ bản trong dinh dưỡng lâm sàng” chương 8 phần 25 về dinh dưỡng và lành vết thương, khuyến nghị mức năng lượng nạp vào là 30 kcal/kg/ngày, Protid: 1,2-1,5g/kg/ngày. Về khoáng chất và vitamin đánh giá theo Bảng nhu cầu khuyến nghị dinh dưỡng cho người Việt Nam Ban hành kèm theo Thông tư số 43/2014/TT-BYT ngày 24 tháng 11 năm 2014 của Bộ trưởng Bộ Y tế.

2.3. Xử lý số liệu

Số liệu được làm sạch và nhập bằng phần mềm Excel, phân tích bằng SPSS 20. Các giá trị biến định tính được trình bày dưới dạng tần suất và tỷ lệ. Biến định lượng dưới dạng trung bình, độ lệch chuẩn. Tìm mối liên quan giữa hai biến sử dụng các test thống kê phù hợp. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê khi giá trị p < 0,05 với độ tin cậy 95%.

III. KẾT QUẢ

Bảng 1 cho thấy tỷ lệ đối tượng nghiên cứu là nam chiếm đa số (60%); tuổi trung bình là 40,2± 12,6. Nguyên nhân tai nạn chủ yếu là tai nạn lao động và giao thông chiếm 80% với vị trí tổn thương hầu hết là chi dưới (75%). Diện tích tổn thương trung bình là 8,3 ± 2,8 cm². Bảng 2 thể hiện số có 20% bệnh nhân được đánh giá suy dinh dưỡng theo chỉ số nhân trắc học BMI, trong khi đó có 65% bệnh nhân được đánh giá có nguy cơ suy dinh dưỡng theo bộ công cụ SGA.

Bảng 1: Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu

Đặc điểm

Số lượng

Tỷ lệ

(%)

Tuổi

40,2 ± 12,6

Giới

Nam

12

60

Nữ

8

40

Nguyên nhân tai nạn

Tai nạn giao thông

7

35

Tai nạn sinh hoạt

4

20

Tai nạn lao động

9

45

Vị trí tổn thương

Chi trên

5

25

Chi dưới

15

75

Diện tích tổn thương (cm²)

8,3 ± 2,8

Bảng 2: Tình trạng dinh dưỡng của đối tượng nghiên cứu lúc nhập viện

Biến số

Bình thường

Suy dinh dưỡng

Số lượng

Tỷ lệ

(%)

Số lượng

Tỷ lệ

(%)

Đánh giá theo chỉ số nhân trắc BMI

16

80

4

20

Bộ công cụ SGA

7

35

13

65

Bảng 3 thể hiện hầu hết các đối tượng nghiên cứu có chế độ ăn đủ theo nhu cầu khuyến nghị, năng lượng trung bình/24h là 1709,0 ± 289,3 Kcal; VTM C 153,5 ± 61,9 mg; và Kẽm là 9,5 ± 2,4 mg. Có đến 16/20 bệnh nhân không đủ nhu cầu khuyến nghị Protein với mức trung bình/24h là 60,1 ± 12,4. Biểu đồ 1 thể hiện BMI, Năng lượng, Protein và Kẽm có mối tương quan dương có ý nghĩa thống kê với tỷ lệ liền vết thương (p<0,05).

Bảng 3: Khẩu phần ăn trung bình trong 7 ngày so với Nhu cầu khuyến nghị trên từng đối tượng nghiên cứu

Biến số

Đủ so với NCKN

Thiếu so với NCKN

Số lượng

Tỷ lệ

(%)

Số lượng

Tỷ lệ

(%)

Năng lượng (Kcal)

15

75

5

25

1709,0 ± 289,3

Protein (g)

4

20

16

80

60,1 ± 12,4

VTM C (mg)

14

70

6

30

153,5 ± 61,9

Kẽm (mg)

17

85

3

15

9,5 ± 2,4

Biểu đồ 1: Mối tương quan giữa Cân nặng, BMI, Năng lượng, Protein, Vitamin C, Kẽm với tỷ lệ liền vết thương

Từ Bảng 5 cho thấy đối tượng nghiên cứu có BMI bình thường, SGA-A và khẩu phần ăn đủ nhu cầu khuyến nghị về Năng lượng, Protein, Vitamin C, Kẽm có tỷ lệ liền vết thương cao hơn so với đối tượng nghiên cứu có tình trạng Suy dinh dưỡng và ăn thiếu NCKN, nhìn chung đều có mối liên quan có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Mặc dù có sự khác biệt về tỷ lệ biến chứng giữa các nhóm, nhưng những khác biệt này không có ý nghĩa thống kê.

Bảng 5: Ảnh hưởng của tình trạng dinh dưỡng và khẩu phần ăn đến tỷ lệ liền vết thương và biến chứng

Biến số

Tỷ lệ liền vết thương

Biến chứng

Không

BMI

Bình thường

0,08 ± 0,07

2

14

SDD

0,003 ± 0,016

1

3

P

0,001

0,509

SGA

Bình thường

0,08 ± 0,03

0

7

SDD

0,04 ± 0,06

3

10

P

0,033

0,521

Năng lượng

Đủ NCKN

0,08 ± 0,08

2

13

Thiếu NCKN

0,02 ± 0,05

1

4

P

0,143

1,00

Protein

Đủ NCKN

0,14 ± 0,09

0

4

Thiếu NCKN

0,04 ± 0,05

3

13

P

0,007

1,00

VTM C

Đủ NCKN

0,08 ± 0,07

1

13

Thiếu NCKN

0,04 ± 0,07

2

4

P

0,387

0,202

Kẽm

Đủ NCKN

0,07 ± 0,07

2

15

Thiếu NCKN

0,004 ± 0,007

1

2

P

0,000

0,404

IV. BÀN LUẬN

4.1. Đặc điểm đối tượng nghiên cứu và tình trạng dinh dưỡng lúc nhập viện

Kết quả nghiên cứu cho thấy nhóm đối tượng có tỷ lệ nam giới chiếm đa số (60%) với độ tuổi trung bình 40,2 ± 12,6 tuổi. Nguyên nhân tổn thương chủ yếu là tai nạn lao động và tai nạn giao thông (80%), trong đó 75% trường hợp tổn thương tại chi dưới. Những đặc điểm này phù hợp với dịch tễ học của chấn thương mô mềm trong dân số lao động, tương đồng với các nghiên cứu trước đó về chấn thương chỉnh hình.

Về tình trạng dinh dưỡng, đánh giá bằng chỉ số BMI cho thấy 20% bệnh nhân bị suy dinh dưỡng, trong khi đó, theo bộ công cụ SGA, tỷ lệ này lên đến 65%. Sự khác biệt này cho thấy BMI có thể không phản ánh đầy đủ tình trạng dinh dưỡng của bệnh nhân, đặc biệt là những bệnh nhân mất khối cơ, giảm khẩu phần ăn kéo dài hoặc có tình trạng viêm mạn tính mà chưa có sự sụt cân đáng kể. Điều này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc sử dụng các công cụ đánh giá dinh dưỡng toàn diện hơn, như SGA, để xác định nguy cơ suy dinh dưỡng trong lâm sàng [10].

4.2. Ảnh hưởng của dinh dưỡng lên quá trình liền vết thương

Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tình trạng dinh dưỡng có ảnh hưởng đáng kể đến tốc độ liền vết thương, với mối liên quan có ý nghĩa thống kê. Cụ thể, bệnh nhân có BMI bình thường đạt tỷ lệ liền vết thương trung bình cao hơn đáng kể so với nhóm suy dinh dưỡng (0,08 ± 0,07 so với 0,003 ± 0,016; p = 0,001). Tương tự, những bệnh nhân được đánh giá là SGA-A (tình trạng dinh dưỡng tốt) cũng có tốc độ liền vết thương nhanh hơn so với nhóm SGA-B và SGA-C (p = 0,033). Những phát hiện này phù hợp với nhiều nghiên cứu trước đó, khẳng định rằng suy dinh dưỡng có thể kéo dài pha viêm, làm suy giảm sự hình thành mô hạt và biểu mô hóa, từ đó làm chậm quá trình lành vết thương [11-13]. Kết quả này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc sàng lọc, đánh giá và can thiệp dinh dưỡng sớm, đặc biệt ở các nhóm bệnh nhân có nguy cơ cao, nhằm tối ưu hóa hiệu quả điều trị và rút ngắn thời gian phục hồi.

Kết quả nghiên cứu cho thấy có mối tương quan thuận giữa năng lượng khẩu phần và tỷ lệ liền vết thương (p<0,05), nghĩa là bệnh nhân tiêu thụ năng lượng cao hơn có xu hướng hồi phục tốt hơn. Tuy nhiên, khi so sánh giữa nhóm bệnh nhân đáp ứng đủ nhu cầu năng lượng khuyến nghị và nhóm thiếu năng lượng, sự khác biệt về tốc độ liền vết thương không đạt ý nghĩa thống kê (p>0,05). Điều này cho thấy rằng mặc dù tổng năng lượng đóng vai trò quan trọng, nhưng yếu tố quyết định quá trình liền vết thương không chỉ phụ thuộc vào số lượng calo tiêu thụ mà còn ở sự cân bằng giữa các thành phần dinh dưỡng. Việc cung cấp năng lượng dư thừa có thể gây ra những tác động bất lợi như tăng đường huyết, tăng CO₂ và nitơ huyết, thâm nhiễm mỡ vào các cơ quan, làm chậm quá trình hồi phục thay vì thúc đẩy nó [7, 14]. Hơn nữa, dù có mức khuyến nghị chung là 30 Kcal/kg/ngày, nhu cầu năng lượng thực tế của từng bệnh nhân không giống nhau, mà phụ thuộc vào tình trạng chuyển hóa, mức độ tổn thương và đáp ứng viêm. Một số bệnh nhân có thể cần mức năng lượng cao hơn để tối ưu hóa quá trình liền vết thương, trong khi những bệnh nhân khác có thể hồi phục hiệu quả với mức năng lượng thấp hơn [7]. Do đó, việc cá nhân hóa chế độ dinh dưỡng, thay vì áp dụng một mức khuyến nghị cố định, là cần thiết để đảm bảo hiệu quả điều trị tốt nhất.

Protein đóng vai trò thiết yếu trong quá trình liền vết thương, tham gia vào phản ứng viêm, tổng hợp collagen, tân mạch hóa và duy trì tính toàn vẹn của mô [1, 7, 15]. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy mối tương quan có ý nghĩa thống kê giữa lượng protein khẩu phần với tốc độ liền vết thương, trong đó nhóm bệnh nhân đáp ứng đủ nhu cầu khuyến nghị về protein có tốc độ hồi phục nhanh hơn so với nhóm thiếu hụt (p<0,05). Tuy nhiên, chỉ 20% bệnh nhân trong nghiên cứu đạt mức protein cần thiết, với lượng tiêu thụ trung bình 60,1 ± 12,4 g/ngày. Một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng thiếu hụt protein là thói quen kiêng khem thực phẩm. Nhiều bệnh nhân hoặc người nhà lo ngại rằng các thực phẩm giàu protein như hải sản, thịt gà, trứng, thịt bò có thể khiến vết thương lâu lành, gây ngứa, mưng mủ hoặc để lại sẹo xấu – dù chưa có bằng chứng khoa học rõ ràng chứng minh điều này. Hành vi kiêng khem không hợp lý có thể làm trầm trọng thêm tình trạng suy dinh dưỡng, ảnh hưởng trực tiếp đến tốc độ hồi phục, tương tự như báo cáo của Trần Thị Loan và cộng sự về khẩu phần ăn thực tế của bệnh nhân bỏng người lớn tại Bệnh viện Bỏng Quốc gia [16]. Điều này nhấn mạnh nhu cầu tăng cường giáo dục dinh dưỡng để loại bỏ quan niệm sai lầm và đảm bảo cung cấp đầy đủ protein cho bệnh nhân.

Vai trò của các chất dinh dưỡng vi lượng trong quá trình chữa lành vết thương đã được nghiên cứu sâu rộng [1, 7]. Trong nghiên cứu của chúng tôi, kẽm cũng đóng vai trò quan trọng trong liền vết thương, với nhóm bệnh nhân có đủ kẽm có tốc độ liền vết thương cao hơn có ý nghĩa thống kê (p = 0,000). Kẽm tham gia vào quá trình tổng hợp protein và phân chia tế bào, đồng thời có vai trò trong chức năng miễn dịch, giúp giảm nguy cơ nhiễm trùng vết thương [17, 18].

Một đánh giá có hệ thống của Thevi et al. ủng hộ việc sử dụng vitamin C để chữa lành vết thương vì nó làm tăng tỷ lệ phục hồi và mức axit ascorbic của bạch cầu [19]. Vitamin C trong kết quả nghiên cứu cũng được ghi nhận có liên quan đến tốc độ liền vết thương, nhưng sự khác biệt giữa nhóm đủ vitamin C và nhóm thiếu không có ý nghĩa thống kê (p = 0,387). Điều này có thể do đa số bệnh nhân trong nghiên cứu có mức vitamin C đủ, do đó sự khác biệt giữa hai nhóm chưa thực sự rõ ràng.

4.3. Hạn chế đề tài

Mặc dù nghiên cứu đã cung cấp bằng chứng quan trọng về mối liên quan giữa dinh dưỡng và quá trình liền vết thương, vẫn tồn tại một số hạn chế cần lưu ý. Cụ thể, cỡ mẫu nhỏ và thời gian theo dõi ngắn có thể ảnh hưởng đến tính đại diện và khả năng đánh giá toàn diện quá trình hồi phục. Bên cạnh đó, việc chưa kiểm soát đầy đủ các yếu tố gây nhiễu như mức độ hoạt động thể chất, tình trạng viêm, bệnh lý nền và quá trình chăm sóc vết thương, có thể tác động đến kết quả nghiên cứu. Phương pháp thu thập dữ liệu dinh dưỡng dựa trên khẩu phần ăn 24 giờ cũng tiềm ẩn sai lệch do phụ thuộc vào trí nhớ của bệnh nhân.

V. KẾT LUẬN

Nghiên cứu của chúng tôi khẳng định tầm quan trọng của dinh dưỡng trong quá trình liền vết thương. Tình trạng suy dinh dưỡng có ảnh hưởng tiêu cực đến tốc độ hồi phục, trong khi việc cung cấp đủ năng lượng, protein và vi chất dinh dưỡng có thể tối ưu hóa quá trình này. Tuy nhiên, không chỉ số lượng calo mà còn chất lượng và sự cân đối của khẩu phần dinh dưỡng mới là yếu tố quyết định. Việc cá nhân hóa chế độ dinh dưỡng dựa trên tình trạng chuyển hóa, mức độ tổn thương và đáp ứng viêm của từng bệnh nhân là cần thiết để đảm bảo hiệu quả điều trị tối ưu. Đồng thời, cần có các biện pháp can thiệp sớm và giáo dục dinh dưỡng để loại bỏ những quan niệm sai lầm về kiêng khem thực phẩm, giúp bệnh nhân được bổ sung đầy đủ dưỡng chất, rút ngắn thời gian hồi phục và giảm nguy cơ biến chứng.

Tuyên bố về xung đột lợi ích: Nghiên cứu chúng tôi thực hiện một cách độc lập, không chịu ảnh hưởng từ bất kỳ tổ chức, cá nhân hay nguồn tài trợ nào có thể tác động đến kết quả hoặc diễn giải dữ liệu. Đồng thời, bài báo không có sự trùng lặp hoặc cạnh tranh với bất kỳ nghiên cứu hoặc ấn phẩm khoa học nào khác.

Tuyên bố về y đức: Người bệnh hoàn toàn tự nguyện tham gia nghiên cứu và có quyền rút khỏi nghiên cứu bất cứ khi nào. Người bệnh được giải thích đầy đủ những lợi ích và quyền lợi khi tham gia nghiên cứu. Dữ liệu cá nhân của người bệnh được bảo mật tuyệt đối và chỉ sử dụng cho mục đích nghiên cứu khoa học